
Toàn cảnh Di tích Quốc gia đặc biệt Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu. Ảnh: TTVH-ĐA
Con người của đạo lý
Sống trong bối cảnh nước mất nhà tan, thân mang bệnh tật, Nguyễn Đình Chiểu đã vượt lên số phận và hoàn cảnh để trở thành con người của những giá trị đạo lý tiêu biểu của dân tộc.
Trước hết, cụ là con người của đạo hiếu gia đình. Trên đường ra Huế dự thi, hay tin mẹ mất, cụ bỏ về, đau đớn khóc lóc đến mù mắt. Có thể có thêm lý do khác như thuốc thang, thời tiết khắc nghiệt…, nhưng tình cảm đối với bậc sinh thành như thế cũng là đặc biệt.
Thứ hai, Nguyễn Đình Chiểu là con người của đạo hiếu quốc gia: đạo ái quốc, ái dân. Cụ căm ghét giặc, muốn “ăn gan”, “cắn cổ” chúng. Bọn xâm lược đi tới đâu, cụ rời đi khỏi đó, kiên quyết không hợp tác trước mọi mua chuộc hay đe dọa. Người dân tan nhà nát cửa, cụ xót xa. Nghĩa sĩ hy sinh, cụ đau xót cùng cực. Không trực tiếp cầm vũ khí chống giặc, cụ cầm bút ca ngợi, cổ vũ nghĩa quân. Là nhà Nho, cụ không nói về trung quân mà rất nhấn mạnh lòng yêu nước, thương dân. Khi giặc Pháp ra sức đàn áp các cuộc khởi nghĩa, tiêu diệt lãnh tụ nghĩa quân thì việc cụ ca ngợi những anh hùng đánh Pháp, từ thủ lĩnh đến nghĩa quân, gọi thẳng bọn Pháp là giặc, là “dương tặc”, thậm chí công khai “muốn tế vong hồn nghĩa sĩ lục tỉnh” không đơn thuần là can đảm, mà phải được coi là sự phản kháng trực diện. Mỗi bài văn tế còn có ý nghĩa như một trận đánh vào kẻ cướp nước. Đó là những việc phi thường.
Thứ ba, Nguyễn Đình Chiểu là con người của chính nghĩa. Từ cách sống cho đến ngòi bút, cụ luôn đứng về lẽ phải, đứng về phía nhân dân. Ngoài tấm lòng yêu nước thương dân, cụ đề cao những giá trị nhân ái, tín nghĩa; lên án thói giả trá, phụ bạc. Cụ ca ngợi đạo nghĩa vợ chồng, bè bạn, thầy trò, chủ tớ… Cụ ghét kẻ làm vua bất nhân, bất nghĩa để nhân dân lầm than.
Thứ tư, gộp ba phương diện trên với nhau, Nguyễn Đình Chiểu là con người của những giá trị Nam Bộ. Thân sinh là người xứ Huế, nhưng cụ sinh ra, lớn lên và sống chủ yếu ở đất Nam Bộ. Nguyễn Đình Chiểu là một tính cách Nam Bộ tiêu biểu, một nhà nho Nam Bộ tiêu biểu: nghĩa tình, khẳng khái, quyết liệt, không câu nệ lẽ trung quân, thương thì thương rất mực, ghét thì ghét tận tâm. Nguyễn Đình Chiểu thể hiện nhất quán những đạo lý này trong cách sống và trong ngòi bút. Cụ phá vỡ những bó buộc của hoàn cảnh bản thân và thời cuộc để trở thành một nhân cách tiêu biểu của thời đại. Cụ hóa thân vào Lục Vân Tiên, nhập thân vào các nghĩa sĩ hy sinh; phân thân thành ông Quán, thành Hớn Minh hay Tử Trực, ông Ngư hay ông Tiều. Các nhân vật này đều có một phần tính cách của cụ, những mảnh ghép của cái đạo lý mà cụ thiết tha xây dựng và đương nhiên, Lục Vân Tiên là một hình mẫu hoàn chỉnh theo quan niệm của cụ. Có thể nói, truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm về đạo lý - đạo lý của nhân dân: trọng tình nghĩa, trọng nhân nghĩa, trọng tín nghĩa.
Nguyễn Đình Chiểu là một con người thiết tha mong được giúp đời. Chuyện khoa cử của cụ có lẽ là để có điều kiện thi thố giúp đời. Nhân vật Lục Vân Tiên cho biết điều này: “Làm trai trong cõi người ta/ Trước lo báo bổ sau là hiển vang”. Từ “báo bổ” mang nhiều ý nghĩa. Vì vậy, dở dang khoa cử, thân phận mù lòa, bị bội hôn, cụ âm thầm học nghề thầy thuốc. Trong lịch sử văn học thời phong kiến, dường như cụ là tác gia duy nhất là thầy đồ kiêm thầy thuốc. Cụ dạy học, chữa bệnh. Cụ nâng đỡ, làm chỗ dựa, người đồng hành tinh thần cho một thế hệ những người yêu nước, từ nhân dân đến các sĩ phu, bằng các tác phẩm đầy nhiệt huyết, giàu chất tuyên ngôn. Mắt cụ mù nhưng lòng sáng, tâm trong.
Tấm lòng thiết tha giúp đời của cụ còn thể hiện ở chỗ sáng tác của cụ gắn liền với thành bại của các cuộc khởi nghĩa, số phận của các lãnh tụ nghĩa quân. Có thể gọi cụ là nhà thơ đánh giặc, nhà thơ nghĩa sĩ. Cụ viết Hịch đánh Tây với những lời lẽ thiết tha:
“Bớ các quân ơi!
Chớ thấy chín trùng hòa nghị mà tấm lòng địch khái nỡ phôi pha;
Đành rằng ba tỉnh giao hòa mà cái việc cừu thù đành bỏ dở”.
Cụ lên án tội ác của giặc:
“Ở đâu mà chẳng thấy:
Đào mồ mả, phá miếu chùa, làm những việc bất nhân.
Ở đâu mà chẳng hay:
Đốt nhà cửa, hãm vợ con, làm những điều vô đạo!”.
Trong thơ, cụ đồng cảm với cuộc sống và thân phận côi cút của người nông dân. Thơ của cụ cùng nhân dân chạy giặc, ra trận cùng nghĩa quân. Có lẽ cụ cũng muốn ăn gan, cắn cổ giặc cướp nước như cụ đã viết về nghĩa quân. Trong số những nghĩa quân liều mình trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, dường như cũng có nhà thơ nghĩa sĩ Nguyễn Đình Chiểu.
Nguyễn Đình Chiểu sống đúng như những điều cụ đã viết. Tư tưởng, tấm lòng, trang viết và cuộc đời của cụ thống nhất. Cụ là nhà thơ của đạo lý và con người của đạo lý. Phần lớn tác phẩm của cụ, dài hay ngắn, truyện thơ hay văn tế, hịch hay thơ trữ tình, ít nhiều đều “chở” các đạo lý đã nói. Thơ chở đạo của cụ thẳng ngay, quyết liệt, ngay gian, chính tà phân minh. Đằng sau những giá trị đạo lý đó là những con người cụ thể, hoặc là bản thân cụ, hoặc là nhân vật, hoặc là người thật hoặc là hư cấu. Vì vậy, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là một thế giới của những con người đạo đức và nghĩa hiệp, ở đó không có chỗ cho cái xấu và người xấu. Cái xấu và người xấu bị cụ đuổi thẳng cổ một cách đầy khinh bỉ. Cái cách mà Nguyễn Đình Chiểu xử trí kẻ xấu trong Lục Vân Tiên rất giống với cách của dân gian trong truyện cổ tích: Võ Công bị mắng xấu hổ mà chết, Trịnh Hâm chìm thuyền làm mồi cho cá, mẹ con Võ Thể Loan bị cọp bắt nhốt trong hang… Đấy là công lý của đất trời, công lý của nhân dân chứ không phải công lý của triều đình. Bên cạnh tuyên ngôn sáng tác, Nguyễn Đình Chiểu từ hoàn cảnh bản thân, từ sở học Nho giáo và từ văn hóa dân tộc, trong đó có văn hóa Nam Bộ, cũng có một tuyên ngôn sống không kém phần quyết liệt:
“Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ
Dầu đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình
Dầu đui mà đặng trọn mình
Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu”.
Có lẽ trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu mới có những nhân vật mạnh dạn tuyên bố “cứu người”, “làm gương”: “Tôi xin ra sức anh hào/ Cứu người cho khỏi lao đao buổi này” (Lục Vân Tiên). “Sự đời thề khuất đôi tròng thịt/ Lòng đạo xin tròn một tấm gương” (Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Nguyễn Trãi nói “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Trong điều kiện cụ thể của thời đại mình, Nguyễn Đình Chiểu diễn đạt lại khái niệm nhân nghĩa. Nhân là không phản bội nhân dân, nghĩa là không phản nước: “Mến nghĩa bao đành làm phản nước/ Có nhân sao nỡ phụ tình nhà” (Đạo Trời). Nhân nghĩa lớn nhất là ái quốc, ái dân.

Đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến viếng và thắp hương tưởng niệm nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ảnh: Bảo tàng tỉnh
Kiến tạo nhiều thành tựu văn hóa
Dựng tượng đài người nông dân đánh giặc cứu nước
Trong lịch sử dân tộc, cho đến nay, nông dân vẫn là lực lượng áp đảo tuyệt đối về số lượng. Từ ngàn xưa đến nay, họ chính là nhân dân nói chung. Trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược, theo sau các tướng lĩnh là đông đảo bước chân của những con người xuất thân từ đồng ruộng. Họ ra trận, chiến đấu, hy sinh xương máu cho Tổ quốc, không để lại tên tuổi và bất cứ đòi hỏi nào. Đền Sóc vinh danh người nông dân bằng bức tượng đứng bên tượng Thánh Gióng (cùng 1 nhà sư và 2 người lính). Tuy nhiên, trong văn chương trước Nguyễn Đình Chiểu thì người nông dân đánh giặc hoàn toàn vắng bóng. Đây sẽ là món nợ rất lớn của văn chương đối với lịch sử và nhân dân nếu không có Nguyễn Đình Chiểu. Nhà thơ đã dựng một tượng đài chân thật, tuyệt đẹp, bất tử của người nông dân đánh giặc cứu nước. Cụ dựng tượng những người yêu nước bằng cả tấm lòng yêu nước và kính phục của mình. Đó là tượng đài của sự hy sinh đầy bi tráng - một đóng góp xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu.
Dựng biểu tượng con người nghĩa hiệp
Nếu tìm một nhân vật anh hùng nghĩa hiệp trong văn chương Việt Nam, chỉ có một “ứng viên” duy nhất, không ai khác Lục Vân Tiên. Từ Hải một tay gây dựng cơ đồ, giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha, nhưng cốt cách là một võ tướng cầm quân xông pha trận mạc. Từ Hải chuộc Kiều khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán xứng danh anh hùng nhưng không thể gọi là hiệp sĩ. Giữa đường gặp người bị cướp, Vân Tiên bẻ cây làm vũ khí: “Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”. Đấy là hiệp sĩ đích thực. Từ Hải nghe tiếng nàng Kiều “mắt xanh chẳng có ai vào” mà đến, Vân Tiên giữa đường tình cờ nghe tiếng dân lành khóc than mà xông vô. Vân Tiên dù là hư cấu nhưng gần với đời thực hơn Từ Hải - một nhân vật có thật. Từ Hải khiến người cảm phục nhưng không cho người niềm tin. Vân Tiên khiến người cảm phục và cho người niềm tin. Có thể học theo Vân Tiên nhưng khó học theo Từ Hải. Hình tượng Vân Tiên là tuyên ngôn về một lối sống, về một kiểu ứng xử, về tinh thần nghĩa hiệp. Hình tượng Từ Hải là một tuyên ngôn về tự do. Vân Tiên là giấc mơ về chính nghĩa còn Từ Hải là giấc mơ tháo cũi sổ lồng. Từ Hải là anh hùng cô độc: xuất hiện cô độc, ra đi cô độc, sự nghiệp cô độc, chết cô độc, tất cả đều đột ngột và chỉ vì Kiều, cho Kiều. Từ Hải chỉ có mỗi quan hệ với Kiều. Vân Tiên không cô độc, không chỉ cho Nguyệt Nga, vì Nguyệt Nga mà với Nguyệt Nga. Dĩ nhiên ở đây không phải nói chuyện hay dở, hơn thua mà để nói đặc điểm. Trong khi Truyện Kiều là một câu chuyện triết lý thì Lục Vân Tiên là câu chuyện đạo lý. Và Nguyễn Đình Chiểu, với khát vọng và cả bất lực trong giấc mơ giúp đời ở độ tuổi tam thập, đã dựng lên một biểu tượng nghĩa hiệp mà trước và sau cụ không biểu tượng nào xứng danh hơn. Đấy là đóng góp của cụ đối với việc giáo dục con người.
Góp phần phổ biến và đưa thể loại văn tế lên đến đỉnh cao
Văn tế đã có từ rất sớm. Bài văn tế đầu tiên theo truyền tụng là Văn tế cá sấu của Nguyễn Thuyên (1229-?). Có nhiều bài văn tế của các tác giả nổi tiếng như Văn tế một vị công chúa của Mạc Đĩnh Chi, Văn tế Nguyễn Biểu của Trùng Quang Đế, Văn tế sống hai cô gái ở Trường Lưu của Nguyễn Du, Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái, Văn tế Phan Châu Trinh của Phan Bội Châu, Văn tế Phan Bội Châu của Huỳnh Thúc Kháng… Người xưa nói khôn văn tế, dại văn bia. Văn tế đọc một lần xong đốt đi, không để lại dấu tích, đời sau chẳng thể chê khen. Văn bia khắc vào đá, nhiều người bình phẩm. Nói chung, đối với văn tế người xưa có thái độ “kính nhi viễn chi”. Văn tế trước Nguyễn Đình Chiểu phần lớn dành cho những đối tượng riêng lẻ với các quan hệ cá nhân. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là đỉnh cao của sự ngợi ca những con người yêu nước chống giặc ngoại xâm. Nếu có bài văn tế nào đáng đưa vào sách giáo khoa văn học ở trường phổ thông nhất, đó chính là tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. Sau Nguyễn Đình Chiểu, nhiều bài văn tế những người yêu nước chống Pháp ra đời, góp phần khẳng định vị trí của văn tế trong lịch sử văn chương nước nhà
Sáng tạo một đỉnh cao của truyện thơ Nôm
Lục Vân Tiên có thể không phải là một tác phẩm toàn bích như Truyện Kiều nhưng vẫn là một đỉnh cao của truyện thơ Nôm, có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc và nhất là trong đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ. Về phương diện nội dung, như đã nói, nhân vật Lục Vân Tiên là hình tượng nghĩa hiệp trước sau chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà. Lục Vân Tiên đẹp một cách lý tưởng: tuổi trẻ, văn võ song toàn, lý tưởng cao đẹp, tình cảm trong sáng, hiếu thảo, ái quốc ái dân, sẵn sàng xả thân vì việc nghĩa… Thoát thai từ một nền văn hóa coi tiền tài như phấn thổ, coi nhân nghĩa tợ thiên kim, đấy là nhân vật mơ ước của nhân dân khốn khó khi mà bộ máy công quyền không cứu giúp được họ trước nạn đạo tặc. Ông bụt với câu thần chú và bộ y phục dạ hội trên tay thì khó xuất hiện, nhưng Lục Vân Tiên diệt bạo trừ gian, bênh vực kẻ yếu thi thoảng vẫn xuất hiện trong đời thường. Về phong cách nghệ thuật, giọng điệu kể chuyện, giọng điệu nhân vật, cách bố trí câu thơ lục bát, thiên nhiên trong thơ… đặc sệt Nam Bộ. Những từ ngữ, cách diễn đạt đậm chất địa phương xuất hiện rất tự nhiên trong Lục Vân Tiên:
“Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng”.
Hay:
“Dân rằng: Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành”.

Bản Lục Vân Tiên được đánh giá cổ nhất, xuất bản năm 1865 (không để năm in). Bản này nằm trong phần sách Hán Nôm quý hiếm của Linh mục Giuse Nguyễn Hữu Triết. Ảnh: Bảo tàng tỉnh
Đẹp “lạnh lùng” là cách nói của người Nam Bộ. Qua và bậu là lối xưng hô của dân gian Nam Bộ. Tuy là truyện tài tử giai nhân, ngoài hai đại từ “chàng” và “nàng”, có lúc Vân Tiên xưng “tôi” với Nguyệt Nga, Nguyệt Nga gọi Vân Tiên là “anh”. Trong khi Nguyễn Du tả Từ Hải một cách ước lệ: “Rỡ mình lạ vẻ cân đai/ Hãy còn hàm én mày ngài như xưa”, thì Nguyễn Đình Chiểu viết về nhân vật của mình hiện thực hơn: “Vân Tiên đầu đội kim khôi/ Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô”. Trong các sáng tác, Nguyễn Đình Chiểu cũng sử dụng nhiều từ ngữ Nam Bộ: chàng ràng, xững vững, bái xái, khẳm, tanh rình… Nếu như trong ngôn ngữ Truyện Kiều, Nguyễn Du kết hợp dòng bình dân và dòng bác học với nhau, thì trong Lục Vân Tiên và nhiều sáng tác khác, Nguyễn Đình Chiểu đã lần đầu tiên đưa ngôn ngữ dân gian Nam Bộ vào văn chương bác học và đặt ngang hàng với ngôn ngữ văn chương bác học. Là nhà Nho, Nguyễn Đình Chiểu có thể trau chuốt ngôn ngữ theo hướng bác học, nhưng cụ đi con đường ngược lại: đi với nhân dân nên cụ học lời ăn tiếng nói của nhân dân. Đó là một lý do khiến người bình dân yêu mến Lục Vân Tiên.
Về phương diện tiếp nhận, truyện thơ Lục Vân Tiên cũng là một hiện tượng độc đáo. Giới trí thức lẫn bình dân Nam Bộ đều yêu thích tác phẩm này. Lục Vân Tiên được dịch ra nhiều thứ tiếng. Người dân Nam Bộ có thể không biết chữ nhưng vẫn thuộc làu Lục Vân Tiên. Dân gian sáng tạo ra cách kể thơ, nói thơ Lục Vân Tiên với giai điệu đặc trưng. Lục Vân Tiên mở đầu cho ca ra bộ, từ đó dẫn đến sự ra đời của nghệ thuật sân khấu cải lương. Câu thơ “Vân Tiên đầu đội kim khôi/ Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô” là một gợi ý rất đẹp cho phục trang sân khấu. Ngày Tết, miền Bắc treo tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống; miền Nam nhà ngói hay nhà tranh đều treo tranh truyện thơ Nôm: Lục Vân Tiên, Thạch Sanh - Lý Thông, Phạm Công - Cúc Hoa, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Nàng Út ống tre…
Đề ra một tuyên ngôn sáng tác mang tính chiến đấu
Nguyễn Đình Chiểu có một tấm lòng thiết tha giúp đời. Trong cảnh nước mất nhà tan, thân mang bệnh tật, kẻ thù mua chuộc, cụ dứt khoát đứng về phía chính nghĩa và gìn giữ đạo nhà. Bản tính của cụ quyết liệt, rạch ròi. Có lẽ vì vậy, cụ là nhà thơ hiếm hoi bấy giờ có tuyên ngôn sáng tác cụ thể:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
“Văn dĩ tải đạo” là quan niệm của Nho gia. Đối với nhà Nho trung đại Việt Nam, văn chương trước hết chở đạo yêu nước. Đạo của Nguyễn Đình Chiểu cũng là đạo yêu nước, nhưng Nguyễn Đình Chiểu không dừng lại ở chuyện chở đạo. Cụ dùng ngòi bút để tấn công kẻ giặc, vạch mặt bọn gian tà. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, một tuyên ngôn về tính chiến đấu của văn chương ra đời. Có người cho rằng “thằng gian” là một khái niệm lịch sử - cụ thể của bối cảnh bấy giờ: những kẻ theo giặc Tây, phản nước hại dân. Chính thời đại đã đặt ra yêu cầu rõ rệt về sứ mệnh chiến đấu của văn chương. Nguyễn Đình Chiểu, với tấm lòng yêu nước, thương dân, với tính cách quyết liệt và một phần vì không thể trực tiếp cầm vũ khí đánh giặc, đã nhận ra yêu cầu này và làm người phát ngôn thời đại của mình.
Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu là tập đại thành thời đại của mình.
Thứ nhất, cụ đã làm tất cả những gì mà thời đại đặt ra đối với một kẻ sĩ, một nhà thơ lớn. Thời đại cần đề cao đạo lý, cụ xây dựng những nhân vật chính nghĩa đến tuyệt đối như Kỳ Nhân Sư sẵn sàng xông mù đôi mắt để không phải chứng kiến cảnh đất nước điêu linh. Thời đại sản sinh những con người đứng ra đánh giặc cứu nước, cứu dân, cụ làm thơ ca ngợi, dựng tượng đài nghệ thuật về họ. Thời đại cần văn chương chiến đấu, cụ viết tuyên ngôn chở đạo, đâm gian. Cụ là người định hướng tư tưởng của thời đại. Cụ xứng danh là nhà thơ nghĩa sĩ.
Thứ hai, Nguyễn Đình Chiểu đưa văn chương theo sát các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ. Cụ sáng tạo bằng hầu hết những thể loại phổ biến thời đại của cụ. Cụ tạo dựng tiếp một đỉnh cao của truyện thơ Nôm. Cụ đưa văn tế đường hoàng sánh vai với các thể tài văn chương khác trong thánh đường văn chương yêu nước. Cụ là chiếc cầu nối của văn hóa Nho giáo và văn hóa Nam Bộ. Cụ nâng tầm văn chương Nam Bộ, là chiếc cầu nối giữa thời đại Nguyễn Du khi mà văn học chủ yếu viết về số phận con người và thời đại của cụ văn học chủ yếu viết về thân phận dân tộc. Ở phương diện này, cụ xứng danh là nhà thơ lớn của dân tộc.
Thứ ba, cụ là người phát ngôn của thời đại và mở đầu dòng văn chương yêu nước chống xâm lược. Cụ là nhà thơ của nhiều tuyên ngôn: Tuyên ngôn sáng tác, tuyên ngôn sống, tuyên ngôn yêu ghét… Văn chương của cụ tiêu biểu cho văn chương đạo lý, răn đời và dạy người; là tiếng nói của chính nghĩa dân tộc trước hành vi cướp nước của giặc ngoại xâm. Với sáng tác của cụ, văn chương chuyển dần từ chủ nghĩa nhân đạo sang chủ nghĩa yêu nước. Ở đây, cụ xứng danh là người dẫn đường cho thời đại. Gộp cả ba phương diện, Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là nhà văn hóa lớn của thế kỷ XIX. Cố Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng từng nói về Nguyễn Đình Chiểu, đại ý là những ngôi sao càng nhìn càng thấy sáng. Thời gian càng lùi xa, các thời đại sẽ còn nhận ra nhiều đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu đối với cuộc đời, văn chương, giáo dục và y thuật. Cụ là một nhân cách sáng ngờin
TS. Phan Công Khanh- Giám đốc Học viện Chính trị khu vực IV