Bà Nguyễn Thị Hoa có nhu cầu tư vấn: Năm 2017, tôi mua 1.000m2 đất vườn của ông L., đất này nằm bên trong đất của ông N., có một đường đi rộng khoảng 1,5m, dài hơn 50m. Từ lúc mua đất cho tới tháng 3-2022, tôi vào chăm sóc vườn bình thường. Đầu tháng 4-2022, ông N. không cho tôi đi trên đường này nữa và bảo tôi tìm lối đi khác. Tôi hỏi thì ông L. cho rằng, trước đây ông N. có thỏa thuận cho ông đi trên đường này. Xin hỏi: Giờ ông N. đã rào đường không cho tôi đi trên đường cũ. Tôi có thể khởi kiện yêu cầu ông N. mở lối đi hay không và phải làm sao?
Thắc mắc của bà được luật sư Phạm Thị Kim Tuyến (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:
- Theo thông tin bà cung cấp thì đây là trường hợp tranh chấp lối đi qua bất động sản (BĐS) liền kề, phát sinh giữa những hộ có đất liền kề, có sử dụng lối đi qua chưa được thỏa thuận hợp pháp.
Khoản 1 Điều 254 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định về điều kiện để được mở lối đi qua BĐS liền kề trong trường hợp sau: BĐS bị vây bọc bởi một hoặc nhiều BĐS của các chủ sở hữu khác; BĐS vì bị vây bọc mà không có hoặc không có đủ lối đi ra đường công cộng.
Việc mở lối đi qua BĐS liền kề không được tùy tiện mà phải thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của BĐS bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho BĐS có mở lối đi. Theo đó, chủ sở hữu BĐS hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù giá trị đất cho chủ sở hữu BĐS cho mở lối đi, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.
Mặt khác, Điều 171 Luật Đất đai năm 2013 quy định về quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề như sau: “1. Quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề bao gồm quyền về lối đi; cấp, thoát nước; tưới nước, tiêu nước trong canh tác; cấp khí ga; đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý trên thửa đất liền kề. 2. Việc xác lập quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự và phải thực hiện đăng ký theo quy định tại Điều 95 của luật này”.
Căn cứ vào quy định pháp luật nêu trên, nếu thật sự gia đình bà không có lối đi nào khác ra đường công cộng, thì thuộc trường hợp được hưởng quyền này.
Ngoài ra, ông L. cho rằng trước đây ông N. có thỏa thuận cho ông đi trên lối đi này. Do vậy, gia đình bà còn được hưởng quyền chuyển giao quyền về lối đi và ông N. phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quyền về lối đi cho bà theo quy định tại Điều 247 BLDS năm 2015: “Quyền đối với BĐS liền kề có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân và được chuyển giao khi BĐS được chuyển giao, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”.
Ông N. rào chắn không cho bà đi lại bằng lối đi như trước đây là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền về lối đi qua BĐS liền kề của gia đình bà. Nếu hai bên không thỏa thuận được, bà có thể nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND xã (phường) nơi có đất tranh chấp. Nếu hòa giải không thành, bà có quyền nộp đơn khởi kiện ra tòa án cấp huyện (nơi có đất tranh chấp) theo quy định tại Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.
Trường hợp khởi kiện tại tòa án, bà cần chuẩn bị các tài liệu, hồ sơ cần thiết, gồm: đơn khởi kiện theo mẫu và phải thể hiện đầy đủ các nội dung. Kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của bà bị xâm phạm (như các giấy tờ về quyền sử dụng đất của bà; hợp đồng mua bán, chuyển nhượng phần đất mà bà đã mua, quá trình sử dụng lối đi tranh chấp này; bản đồ đo đạc về ranh giới, mốc giới thửa đất của bà; hồ sơ hòa giải không thành của UBND xã, phường; giấy tờ xác nhận bà không có lối nào khác để ra đường công cộng…).
H.Trâm (thực hiện)