Bà NTT có nhu cầu tư vấn: Năm 2008, chú tôi có cho ông A cất chòi ở tạm trên phần đất có diện tích khoảng 70m2 dọc theo lộ trung tâm xã. Năm 2018, ông A làm nhà tiền chế trên đất này để mua bán rau củ. Gia đình tôi yêu cầu ông A trả đất nhưng ông không đồng ý và tiếp tục sử dụng cho đến nay. Đất này do chú tôi đứng tên quyền sử dụng đất (QSDĐ). Chú tôi bệnh chết năm 2020, sổ đỏ chưa làm thủ tục chuyển QSDĐ cho thím dâu tôi đứng tên. Chú thím tôi không có con và bà đang thờ cúng chồng. Xin hỏi: Để đòi lại đất đã bị lấn chiếm, thím dâu tôi phải làm sao?
Thắc mắc của bà được luật sư Lê Vũ Hồng Huệ (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:
- Theo như bà trình bày thì ông A là người ở nhờ trên đất của chú thím bà từ năm 2008 và chú của bà là người đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ. Nay chú của bà đã chết nhưng thím dâu bà chưa làm thủ tục để đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ. Tuy nhiên, thím dâu của bà là người thừa kế hợp pháp di sản do chú của bà để lại.
Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản như sau: 1) Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. 2) Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó.
Tuy nhiên, bà cần xem xét kỹ lại xem chú của bà lúc còn sống có làm hợp đồng thỏa thuận với ông A việc cho ông ở trên đất hay không. Nếu có làm hợp đồng thì sẽ căn cứ theo nội dung hợp đồng để thực hiện. Trường hợp chỉ thỏa thuận miệng mà bên ông A không có chứng cứ, chứng minh chú của bà cho ông A ở lâu dài thì thím dâu của bà hoặc những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của chú có quyền khởi kiện yêu cầu đòi lại phần đất trên theo quy định tại Khoản 1, Điều 166 của Bộ luật Dân sự.
Tranh chấp đất của thím dâu bà với ông A, trường hợp này vì là đất đã có giấy chứng nhận QSDĐ nên thẩm quyền giải quyết là của tòa án nhân dân nơi có đất tranh chấp (theo quy định tại khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013).
Trước hết, thím dâu của bà nên thương lượng với ông A, yêu cầu ông trả lại đất đã ở nhờ. Trường hợp 2 bên không thể thỏa thuận được thì thím dâu của bà yêu cầu UBND cấp xã hòa giải tranh chấp. Nếu hòa giải không thành thì vụ việc sẽ được chuyển đến tòa án nhân dân (nơi có đất tranh chấp) giải quyết.
Thím dâu của bà cần thu thập các tài liệu, chứng cứ chứng minh QSDĐ hợp pháp của chú thím của bà như: giấy chứng nhận QSDĐ, các tài liệu liên quan bằng chứng cho thấy ông A đang thực hiện hành vi lấn chiếm đất (video, hình ảnh, người làm chứng việc lấn chiếm đất của ông A, những người sống lâu biết rõ nguồn gốc đất…).
H. Trâm (thực hiện)