Ông Nguyễn Văn Đặng có nhu cầu tư vấn: Cha tôi (74 tuổi) bị chết, do tai nạn giao thông xảy ra khoảng 23 giờ đêm 20-12-2019. Người gây tai nạn là chị S. Tôi đã làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án nhưng Cơ quan điều tra Công an huyện có quyết định không khởi tố vụ án, với lý do là lỗi của cha tôi. Xin hỏi, khi nào thì khởi tố vụ án hình sự? Tôi không đồng ý với quyết định của Công an huyện không khởi tố vụ án, tôi phải làm sao?
Thắc mắc của ông được luật sư Võ Tấn Thành (Đoàn Luật sư Bến Tre) trả lời như sau:
- Theo quy định tại Điều 143 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ sau đây: “1. Tố giác của cá nhân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; 3. Tin báo trên phương tiện giao thông đại chúng; 4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; 5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; 6. Người phạm tội tự thú”.
Bên cạnh đó. Điều 157 BLTTHS quy định: Khi có một trong các căn cứ sau đây thì không được khởi tố vụ án hình sự: “1. Không có sự việc phạm tội; 2. Hành vi không cấu thành tội phạm; 3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự…”.
Theo như ông trình bày, thì chị S đã gây tai nạn làm cha của ông chết nhưng Cơ quan điều tra Công an huyện không khởi tố vụ án vì do lỗi của cha ông. Nếu là đúng như vậy, thì hành vi của chị S không cấu thành tội phạm (do không có lỗi). Do đó, cơ quan điều tra không đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Tuy nhiên, nếu ông không đồng ý với quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan Công an huyện thì ông có quyền khiếu nại theo quy định tại Khoản 1, Điều 469 của BLTTHS. Cụ thể như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Theo quy định tại Điều 471 BLTTHS thì thời hạn khiếu nại là 15 ngày kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người đó cho rằng có vi phạm pháp luật.
Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với điều tra viên, cán bộ điều tra, phó thủ trưởng và thủ trưởng cơ quan điều tra, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Điều 475 BLTTHS quy định như sau: “Khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, cán bộ điều tra, phó thủ trưởng cơ quan điều tra trừ khiếu nại về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam do thủ trưởng cơ quan điều tra xem xét giải quyết trong hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của thủ trưởng cơ quan điều tra thì trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại có quyền khiếu nại đến viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét giải quyết. Quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp là quyết định có hiệu lực pháp luật”.
Căn cứ vào những quy định trên, ông có thể làm đơn khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra công an huyện đến thủ trưởng cơ quan điều tra công huyện (nêu trên) để được xem xét giải quyết theo thẩm quyền.
H.Trâm (thực hiện)