Luật Giao thông đường bộ

03/07/2009 - 09:35

Luật Giao thông đường bộ 2008 (Luật GTĐB mới) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13-11-2008. Luật này thay thế cho Luật GTĐB ngày 29-6-2001 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2009.

Cấm người điều khiển ô-tô mà trong máu, hơi thở có nồng độ cồn

 

Theo Luật GTĐB mới, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (gọi là xe cơ giới) gồm: xe ô-tô; máy kéo; rơ-moóc hoặc sơ-mi rơ-moóc được kéo bởi xe ô-tô, máy kéo; xe mô-tô hai bánh; xe mô-tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự. Luật quy định phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (gọi là xe thô sơ) gồm: xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích-lô,  xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự.

Luật GTĐB cũ quy định trường hợp xe máy được chở vượt số người cho phép: “Người điều khiển xe mô-tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở tối đa một người lớn và một trẻ em; trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu hoặc áp giải người phạm tội thì được chở hai người lớn”. Theo Luật GTĐB mới, khoản 1-Điều 30 quy định: “Người điều khiển xe mô-tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở một người, trừ những trường hợp sau thì được chở tối đa hai người: chở người bệnh đi cấp cứu; áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật; trẻ em dưới 14 tuổi”.

 

Về việc đội mũ bảo hiểm với trẻ em, Luật GTĐB cũ không buộc trẻ em dưới 14 tuổi phải đội mũ bảo hiểm, Luật GTĐB mới buộc trẻ em trên 6 tuổi phải đội. Đồng thời, Luật GTĐB mới quy định, bắt buộc người tham gia giao thông bằng xe đạp điện phải đội mũ bảo hiểm (Luật GTĐB cũ không buộc).

Về độ tuổi lái xe khách, Luật GTĐB mới quy định: người từ đủ 24 tuổi trở lên được lái xe ô-tô chở người từ 10 đến 30 chỗ ngồi (theo Luật GTĐB cũ là 21 tuổi); người từ đủ 27 tuổi trở lên được lái xe ô-tô chở người trên 30 chỗ ngồi (theo Luật GTĐB cũ là 25 tuổi). Ngoài ra, theo Luật GTĐB mới, người khuyết tật điều khiển xe mô-tô ba bánh dùng cho người  khuyết tật thì được cấp giấy phép lái xe hạng A1 (nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật).

 

Để tránh trường hợp tài xế, nhân viên phục vụ xe khách (lơ xe) o ép khách hàng hoặc hành xử kém văn hóa, Luật GTĐB mới nghiêm cấm: “Đe dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; bắt ép hành khách sử dụng dịch vụ ngoài ý muốn; chuyển tải, xuống khách hoặc các hành vi khác nhằm trốn tránh phát hiện xe chở quá tải, quá số người quy định”.

Luật GTĐB mới nghiêm cấm người điều khiển phương tiện GTĐB mà trong cơ thể có chất ma túy (Luật GTĐB cũ quy định, nghiêm cấm người lái xe sử dụng chất ma túy).

 

Luật GTĐB mới nghiêm cấm người điều khiển xe ô-tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc cấm hẳn tài xế  ô-tô (và các loại xe trên) có uống rượu, bia trước khi điều khiển xe. Đồng thời, luật nghiêm cấm  người điều khiển xe mô-tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít  máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở (Luật GTĐB cũ quy định, 80 miligam/ 100 mililít máu hoặc 40 miligam/ 1 lít khí thở hoặc có các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng). Theo khảo sát của ngành chức năng, rất khó đoán được một người uống bao nhiêu ly rượu hay bia thì nồng độ cồn trong máu không vượt ngưỡng luật quy định; bởi lẽ, tình trạng sức khỏe của mỗi người thì khác nhau, “tửu lượng” của mỗi người, cách uống rượu, thời gian uống cũng khác nhau. Qua thực tế kiểm tra, một số người chỉ uống khoảng 2-3 ly nhỏ nhưng vẫn vượt mức nồng độ cồn cho phép. Do vậy, để tránh bị “dính chấu”, trước khi tham gia giao thông, tài xế xe ô-tô và xe máy tuyệt đối không được uống rượu, bia.

 

Hiện tại, Chính phủ chưa ban hành nghị định hướng dẫn Luật GTĐB mới về xử phạt hành chính trong lĩnh vực GTĐB nên Nghị định 146/2007/NĐ-CP ngày 14-9-2007 của Chính phủ, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB vẫn còn được áp dụng để xử phạt.

 

 

Một số quy định về mức xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 146/2007/NĐ-CP ngày 14-9-2007 của Chính phủ và theo Dự thảo nghị định xử phạt mới:

- Tài xế uống rượu, bia:
+ Xử phạt theo Nghị định 146: đối với lái ô-tô, từ 1 đến 3 triệu đồng; đối với lái xe máy, từ  400 ngàn đến 800 ngàn đồng.
+ Xử phạt theo Dự thảo nghị định mới: đối với lái xe ô-tô, từ  500 ngàn đến 700 ngàn đồng (có nồng độ cồn thấp), từ  2 đến 3 triệu đồng (có nồng độ cồn cao); đối với lái xe máy, từ  500 ngàn đồng đến 1 triệu đồng.
- Tài xế vi phạm về ma túy:
+ Xử phạt theo Nghị định 146: đối với lái xe ô-tô, từ 3 đến 5 triệu đồng; đối với lái xe máy, từ 1 đến 2 triệu đồng.
+ Xử phạt theo Dự thảo nghị định mới: đối với xe ô-tô, từ 4 đến 6 triệu đồng; đối với xe máy, từ 1 đến 3 triệu đồng.
- Người đi xe đạp điện vi phạm không đội mũ bảo hiểm:
+ Xử phạt theo Dự thảo nghị định mới: từ 100 ngàn đến 200 ngàn đồng.
- Tài xế, nhân viên xe ô-tô khách hành xử kém văn hóa:
+ Xử phạt theo Dự thảo nghị định mới: từ 300 ngàn đến 500 ngàn đồng.
- Ô-tô chạy quá tốc độ trên 20 km/giờ  đến 35 km/giờ:
+ Xử phạt theo Nghị định 146: từ 1 đến 3 triệu đồng.
+ Xử phạt theo Dự thảo nghị định mới: từ 2 đến 3 triệu đồng.
- Ô-tô lạng lách, đánh võng; chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ:
+ Xử phạt theo Nghị định 146: từ  6 đến 10 triệu đồng.
+ Xử phạt theo Dự thảo nghị định mới: từ  8  đến 12 triệu đồng.

H.Đ (tổng hợp)

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN

Liên kết hữu ích