
Truyền dạy Nói thơ Vân Tiên trong trường học. Ảnh: Hữu Nghĩa
Tầm ảnh hưởng sâu rộng
Tên gọi thể loại Nói thơ Vân Tiên gắn với tên và nội dung truyện thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu: Lục Vân Tiên. Tác phẩm này được nhà thơ sáng tác vào khoảng đầu những năm 1850, lúc ông còn ở Gia Định (nay thuộc khu vực Quận 1, TP. Hồ Chí Minh). Tác phẩm đã được Trương Vĩnh Ký phiên âm thành chữ Quốc ngữ và xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889.
Nói thơ Vân Tiên là sản phẩm văn hóa dân gian được người Nam Bộ sáng tạo có nguồn gốc từ lối nói thơ của miền Trung nhưng đã có nhiều cải tiến (về âm điệu, cách thể hiện) cho phù hợp với ngôn ngữ, tính cách, tâm hồn và không gian diễn xướng của Nam Bộ. Lối nói thơ Vân Tiên ra đời trên cơ sở nhu cầu phổ biến thơ văn yêu nước, thể hiện tinh thần đấu tranh không khuất phục cường quyền, đem trí tài phụng sự đất nước và nhu cầu truyền bá đạo lý, tôn vinh phẩm hạnh con người Việt Nam trước nguy cơ đảo lộn, suy đồi các giá trị truyền thống trong xã hội đương thời. Có thể nói, Nói thơ Vân Tiên được xem là “đặc chủng” phái sinh từ nhu cầu xã hội: phổ biến tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu bằng phương thức truyền khẩu.
Có thể nói rằng, cùng lúc với sự phổ biến tác phẩm thì lối nói thơ này nhanh chóng lan rộng ra khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trước khi nhà thơ yêu nước về sinh sống ở Ba Tri. Tuy nhiên, những yếu tố địa - văn hóa của Ba Tri cùng với danh tiếng của nhà thơ yêu nước và thái độ “Thà đui mà giữ đạo nhà/ Còn hơn có mắt ông cha không thờ” đã tác động không nhỏ đến nhận thức, tình cảm của một cộng đồng luôn có ý thức giữ gìn các giá trị nhân văn nên Nói thơ Vân Tiên đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng ngay trên vùng đất Ba Tri - Bến Tre so với những địa phương khác ở Nam Bộ là điều tất nhiên!
Nói thơ Vân Tiên có nhiều dạng thức thể hiện như: trong lễ Kỳ Yên, lúc thu hoạch vụ mùa, trên phà Rạch Miễu, lễ tiệc, các tác phẩm chuyên nghiệp. Đặc biệt, Nói thơ Vân Tiên còn hiện diện và thay thế cho những câu hát ru. Cha không hát được “Ầu ơ… ví dầu…” mà cha sẽ nói cho cho con nghe những câu thơ thay lời cha muốn nói. Rằng các con: “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”. Đối với những đứa trẻ ở Bến Tre, Nói thơ Vân Tiên đã thay thế những câu hát ru để đưa các em đi vào giấc ngủ ngon và lớn lên cùng năm tháng. Đây là những bài học đầu đời mà đứa trẻ được học để lớn lên càng thấu hiểu, thấm sâu và chi phối nhận thức, hành động của mỗi người.
Góp phần định hình nhân cách người Bến Tre
Tác phẩm Lục Vân Tiên nêu cao đạo lý truyền thống, tinh thần đấu tranh vì chính nghĩa và ca ngợi nhân cách tốt đẹp của con người. Nhân nghĩa, đạo lý và tính cách con người luôn hiện hữu trong ca dao, tục ngữ và các hình thức diễn xướng dân gian gắn với nhu cầu tâm linh và nhu cầu giải trí của người dân Nam Bộ. Trong các thể loại văn học lưu truyền rộng rãi trong dân gian có lẽ thể thơ lục bát là dễ thâm nhập nhất với các tầng lớp lao động xã hội. Cấu trúc thơ theo cặp câu 6 - 8 (lục bát) có vần điệu, nên dù lời thơ trau chuốt hay giản dị đời thường… thì tính vần điệu của thể thơ này vô cùng phù hợp với những câu chuyện kể và rất dễ thuộc lòng. Đây là yếu tố quan trọng giúp cho truyện thơ Lục Vân Tiên và các truyện thơ dân gian khác phổ biến nhanh chóng và sâu rộng khắp Nam Bộ. Thông qua Nói thơ Vân Tiên, những giá trị của tác phẩm Lục Vân Tiên được truyền bá và dần định hình nhân cách các thế hệ người Bến Tre nói riêng và Nam Bộ nói chung. Nội dung truyện thơ với một thế giới nhân vật sống động rất tiêu biểu cho quan niệm phương Đông về nhân nghĩa, chính tà, về tinh thần nghĩa hiệp xả thân cứu người...
Như vậy, cốt truyện chịu ảnh hưởng rõ rệt của truyện cổ tích, truyện Nôm dân gian với kết cấu bổ đôi phân cực chính tà và kết thúc có hậu, gần gũi, dễ thẩm thấu đến đông đảo quần chúng nhân dân như “ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành”. Những nhân vật được xây dựng trở thành hình tượng lý tưởng cho khát vọng của dân gian về con người lý tưởng mà Lục Vân Tiên là một kết tinh rất đẹp: quân tử, nghĩa hiệp, dũng khí, võ giỏi văn hay, thương người... Trong xã hội phong kiến cũng như hiện đại, tiết hạnh là chuẩn không thể thiếu, đã là phụ nữ, một người phụ nữ đàng hoàng, danh giá thì phải mang trong mình “công, dung, ngôn, hạnh” và phải làm trọn vẹn. Những phẩm hạnh ấy sẽ giúp người con gái trở thành vợ hiền, dâu thảo…
Từ những giá trị đạo đức tốt đẹp mà tác phẩm Lục Vân Tiên đem lại thông qua hình thức nói thơ, biết bao chàng “Lục Vân Tiên” và nàng “Kiều Nguyệt Nga” đã xuất hiện trong đời thường. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, những thế hệ người Bến Tre đã kiên cường chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước mà chẳng sợ hy sinh xương máu và nổi tiếng nhất là cuộc Đồng khởi vào năm 1960. Những anh hùng, liệt sĩ này xứng đáng là “Lục Vân Tiên” trong thời đại mới với những phẩm chất tốt đẹp. Bên cạnh những chàng Lục Vân Tiên còn có những nàng Kiều Nguyệt Nga thủy chung son sắt, ở nhà nuôi con, phụng dưỡng cha mẹ để chồng an tâm đánh giặc. Không những thế, những người phụ nữ Bến Tre còn là lực lượng chiến đấu trực tiếp với kẻ thù như Bộ đội Thu Hà, “Đội quân tóc dài”. Hiện nay, giữ gìn và phát huy phẩm chất của người phụ nữ là việc làm cần thiết, xây dựng hình mẫu người phụ nữ “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, xứng đáng với 8 chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Đó chính là những phẩm chất, cốt cách, nghĩa khí của người Bến Tre nói riêng và người Nam Bộ nói chung, “Kiến ngãi bất vi vô dõng giả/ Lâm nguy bất cứu mạt anh hùng”.
Hiện nay, tỉnh đang triển khai thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU về xây dựng con người Bến Tre phát triển toàn diện, gia đình hạnh phúc, tiến bộ với 10 giá trị cốt lõi gồm: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, bản lĩnh, tự cường, tự trọng, trách nhiệm, hợp tác, sáng tạo. Bên cạnh đó, diễn xướng dân gian dần được phục hồi và thích ứng với điều kiện xã hội hiện nay. Thông qua công tác bảo tồn và phát huy, nghệ thuật trình diễn Nói thơ Vân Tiên sẽ tiếp tục lan tỏa những giá trị đạo đức, góp phần vun bồi những phẩm chất tốt đẹp của người Bến Tre. |
Bùi Hữu Nghĩa