Cần tăng cường tính minh bạch và chế tài đối với hành vi kê khai không trung thực vốn điều lệ

20/05/2025 - 16:18

BDK.VN - Tiếp tục Chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, sáng 20-5-2025, Quốc hội thảo luận tại Hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp. Tham gia thảo luận tại Hội trường, đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi - Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại Quốc hội tỉnh Bến Tre có ý kiến đối với dự thảo Luật.

Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi - Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Bến Tre phát biểu.

Đại biểu thống nhất với sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp (DN) nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như công tác quản lý nhà nước đối với DN. Việc sửa đổi lần này còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền.

Dự thảo Luật đã thể hiện tinh thần cải cách, tạo thuận lợi hơn cho DN trong việc gia nhập và hoạt động trên thị trường. Đồng thời, dự thảo cũng tăng cường hiệu quả quản trị DN thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý, góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm. Đặc biệt, việc sửa đổi này là bước cụ thể để thực hiện nghiêm túc Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền giai đoạn 2021–2025.

Trên tinh thần đó, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Bến Tre có một số ý kiến góp ý cụ thể.

Thứ nhất, tại điểm d khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật bổ sung khoản 35 của Điều 4 Luật hiện hành, giải thích: “Kê khai khống vốn điều lệ là một trong các hành vi sau: a) Kê khai số vốn điều lệ khi đăng ký thành lập nhưng không góp đủ số vốn đã cam kết và không đăng ký thay đổi vốn điều lệ theo quy định; b) Kê khai số vốn điều lệ lớn hơn số vốn đã được thanh toán xong khi đăng ký thay đổi vốn điều lệ”.

Đại biểu cho rằng, việc bổ sung các quy định này là hợp lý, tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả của quy định, đại biểu đề nghị trong quá trình tổ chức thực hiện cần bổ sung các quy định về biện pháp, chế tài đủ mạnh để xử lý đối với những hành vi kê khai khống vốn điều lệ, không góp đủ số vốn điều lệ đã đăng ký, hoặc cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị, nhằm ngăn chặn các hành vi gian lận và đảm bảo việc tuân thủ các quy định về quản lý thuế, nâng cao kỷ cương pháp luật trong hoạt động đăng ký doanh nghiệp.

Thứ hai, tại Điều 2 dự thảo Luật về điều khoản chuyển tiếp có quy định: “Đối với các doanh nghiệp được thành lập trước thời điểm Luật này có hiệu lực thì việc kê khai bổ sung thông tin chủ sở hữu hưởng lợi DN được thực hiện đồng thời tại thời điểm DN tiến hành thủ tục đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký DN hoặc thủ tục thông báo thay đổi nội dung đăng ký DN tại thời điểm đăng ký thay đổi gần nhất”.

Đại biểu cơ bản tán thành với quy định này và cho rằng việc yêu cầu DN kê khai bổ sung thông tin chủ sở hữu hưởng lợi tại thời điểm đăng ký thay đổi gần nhất là hợp lý, bảo đảm tính khả thi và tránh gây xáo trộn lớn cho hoạt động của DN. Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi đề nghị cần bổ sung quy định cụ thể về thời hạn chậm nhất mà DN bắt buộc phải hoàn thành việc kê khai thông tin này, nhằm tránh tình trạng trì hoãn hoặc không thực hiện, gây khó khăn cho công tác theo dõi, quản lý DN và xác minh thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. Đại biểu đề xuất thời hạn phù hợp là 12 tháng kể từ ngày Luật có hiệu lực.

Thứ ba, liên quan đến một số quy định của Luật DN hiện hành còn tồn tại khó khăn, vướng mắc nhưng chưa được đề cập sửa đổi trong dự thảo Luật lần này:

- Tại khoản 1 Điều 4 của Luật DN hiện hành đã có quy định giải thích từ ngữ về “bản sao”. Tuy nhiên, trong thực tiễn, ngày càng có nhiều hồ sơ được nộp qua môi trường điện tử. Trên cơ sở đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung giải thích rõ ràng về khái niệm “bản sao chứng thực điện tử” trong dự thảo Luật, nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ điện tử, phù hợp với xu hướng chuyển đổi số trong quản lý hành chính và hoạt động DN.

- Tại khoản 2 Điều 17 của Luật hiện hành quy định về đối tượng không có quyền thành lập và quản lý DN tại Việt Nam. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát, xem xét bổ sung thêm đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật về thuế (trốn thuế, nợ thuế,...) vào đối tượng bị cấm thành lập và quản lý DN, vì thời gian qua, việc vi phạm thuế nói chung của các DN đang diễn biến ngày càng tinh vi, với số tiền ngày càng lớn, gây thất thu ngân sách nhà nước rất cao. Việc bổ sung đối tượng này sẽ góp phần đảm bảo tính răn đe, sự nghiêm minh của pháp luật nhằm ổn định môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội.

- Tại Điều 34 về tài sản góp vốn của Luật DN hiện hành quy định:

“1. Tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.

2. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp hoặc có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản quy định tại khoản 1 Điều này mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn theo quy định của pháp luật”.

Tuy nhiên, Luật hiện hành vẫn chưa có quy định cụ thể về việc DN hoặc cá nhân có thể sử dụng tài sản đang thế chấp tại ngân hàng hoặc tài sản hình thành từ vốn vay để góp vốn hay không. Việc thiếu quy định rõ ràng này đã gây lúng túng trong thực tiễn áp dụng tại nhiều địa phương, đặc biệt là trong khâu thẩm định hồ sơ đăng ký góp vốn và xử lý tranh chấp phát sinh.

Từ thực tế đó, đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định cụ thể về điều kiện, trình tự và giới hạn việc sử dụng tài sản đang thế chấp hoặc tài sản có nguồn gốc từ vốn vay làm tài sản góp vốn, nhằm đảm bảo tính thống nhất trong thực thi pháp luật, đồng thời tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của DN.

- Tại Điều 42 Luật DN hiện hành quy định: “Trụ sở chính của DN đặt trên lãnh thổ Việt Nam, là địa chỉ liên lạc của DN và được xác định theo địa giới đơn vị hành chính; có số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có)”.

Tuy nhiên, quy định này không đề cập đến việc yêu cầu các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp đối với địa chỉ trụ sở khi nộp hồ sơ đăng ký DN. Trên thực tế hiện nay, có không ít cá nhân và tổ chức đăng ký thành lập DN nhưng lại sử dụng địa chỉ không có thực hoặc địa chỉ nhà riêng của người dân. Thêm vào đó, số điện thoại của công ty có thể không liên lạc được hoặc không tồn tại, điều này tạo ra không ít khó khăn cho các cơ quan chức năng trong công tác hậu kiểm sau khi doanh nghiệp được đăng ký.

Vì vậy, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Bến Tre đề nghị Ban soạn thảo xem xét nghiên cứu và bổ sung quy định cụ thể về việc yêu cầu chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp đối với địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo tính minh bạch và dễ dàng kiểm tra trong quá trình giám sát, quản lý doanh nghiệp.

                                                                           Tin, ảnh: Kim Ngân

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN