Bà N.T.M có nhu cầu tư vấn: Mẹ tôi mất năm 2015. Trước đó, cha và mẹ tôi có di chúc được chứng thực tại UBND xã, phân chia tài sản cho 4 người con (3 nam, 1 nữ là út), mỗi người được chia đều 2.000m2 đất vườn. Cha tôi mất năm 2020, ông có để lại di chúc viết tay có 2 người lớn tuổi làm chứng, cha tôi cho 2 con trai lớn mỗi người 2.000m2 đất, cho con trai kế 3.000m2 đất, còn tôi chỉ được 1.000m2 đất. Xin hỏi: Di chúc của cha mẹ tôi để lại, di chúc nào là hợp pháp và di sản thừa kế được phân chia ra sao?
Thắc mắc của bà được luật sư Nguyễn Văn Tặng (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:
- Điều 624 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Theo quy định tại Điều 628 BLDS năm 2015, di chúc bằng văn bản có 4 loại gồm: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có người làm chứng; di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực; di chúc văn bản có công chứng, chứng thực.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 635 BLDS thì người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
Theo nội dung bà trình bày thì cha mẹ bà có lập di chúc trước năm 2015, tài sản chia đều cho các con là mỗi người được 2.000m2 đất. Đến năm 2020, cha bà chết và trước đó ông cũng đã tiếp tục lập di chúc viết tay có thay đổi nội dung di chúc của cha mẹ bà cùng lập trước năm 2015.
Tuy nhiên, trong trường hợp này do bà không nói rõ tài sản chung của cha mẹ bà là bao nhiêu đất, cha bà có đất nào khác hay không. Nếu trường hợp cha mẹ bà chỉ có 8.000m2 đất là tài sản chung thì di chúc của ông bà được lập trước năm 2015 có chứng thực của UBND xã là hợp pháp; còn di chúc viết tay của cha bà và có 2 người làm chứng là không hợp pháp vì cha của bà không có quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng (8.000m2 đất như trên).
Nếu trường hợp ngoài tài sản chung này mà cha của bà có tài sản khác thì di chúc viết tay có người làm chứng vẫn có giá trị pháp lý và được xem xét giải quyết.
H. Trâm (thực hiện)