Bà N.T.T cần tư vấn: Lúc còn nhỏ tôi và bà H. cùng sống chung và chăm sóc cho ông ngoại (bà ngoại đã chết). Lúc còn sống, ngoại có hứa cho chúng tôi 400m2 đất vườn, có nhà cấp 4 trên đất. Năm 2021, ngoại tôi chết không để lại di chúc. Nay tôi và bà H. muốn chia tài sản của ngoại để lại thì phải làm sao? Ngoại tôi có người con ruột ở nước ngoài, đã từ lâu không có liên lạc, chỉ còn tôi và bà H.
Thắc mắc của bà được luật sư Nguyễn Văn Tặng (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:
- Trong trường hợp này, vì ông ngoại của bà mất năm 2021 và không để lại di chúc, tài sản của ông sẽ được chia theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015.
Theo quy định tại Điều 651 BLDS: Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Theo Điều luật quy định thì những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Như bà trình bày thì bà và bà H. là những người thuộc hàng thừa kế thứ hai. Ông ngoại của bà có người con ruột đang ở nước ngoài, dù không liên lạc từ lâu nhưng người này vẫn có quyền thừa kế hợp pháp.
Nếu không liên lạc được với người con ruột của ông ngoại bà ở nước ngoài, bà với bà H. muốn chia di sản thừa kế thì có thể thực hiện các trường hợp như sau:
- Trường hợp 1: Nộp đơn yêu cầu tòa án tuyên bố mất tích, nếu người này mất tích hơn 2 năm không có tin tức (theo Điều 68 BLDS).
Sau khi tòa án tuyên bố mất tích, có thể tiến hành thủ tục chia thừa kế. Nếu sau 30 năm kể từ ngày mở thừa kế mà người con ruột vẫn không nhận tài sản, phần di sản của họ sẽ thuộc quyền sở hữu của người đang quản lý hợp pháp tài sản (theo Điều 623 BLDS).
- Trường hợp 2: Theo Điều 623 BLDS quy định về thời hiệu để yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản (đất đai, nhà cửa) và 10 năm đối với động sản (tiền, xe cộ, tài sản khác), tính từ thời điểm người để lại di sản qua đời. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Người đang quản lý và sử dụng tài sản có thể được công nhận quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp nếu không có ai khiếu nại, tranh chấp.
H. Trâm (thực hiện)