Khó khăn, thách thức của công tác dân số trong tình hình mới

16/12/2022 - 05:36

BDK - Ngày 25-10-2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết (NQ) số 21-NQ/TW về công tác dân số (DS) trong tình hình mới, với mục tiêu: “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu DS vàng, thích ứng với già hóa DS; phân bố DS hợp lý; nâng cao chất lượng DS, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững”.

Chi cục trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Nguyễn Thanh Tiến (bìa phải) trao máy đo đường huyết cho Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau. Ảnh: Thạch Thảo

Chi cục trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Nguyễn Thanh Tiến (bìa phải) trao máy đo đường huyết cho Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau. Ảnh: Thạch Thảo

Công tác truyền thông

Trong 5 năm qua, để cụ thể hóa mục tiêu của NQ số 21-NQ/TW, Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã tổ chức triển khai đồng bộ các hoạt động trên những lĩnh vực: quy mô, cơ cấu và nâng cao chất lượng DS, phù hợp yêu cầu chuyển hướng công tác DS trong tình hình mới. Từng bước đưa NQ số 21-NQ/TW vào cuộc sống, ngành DS đã luôn thực hiện các giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng DS có hiệu quả nhất, phù hợp từng đối tượng.

Công tác tuyên truyền, quán triệt NQ được chú trọng triển khai thực hiện trên diện rộng trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và quần chúng nhân dân. Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị quán triệt NQ số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trương ương Đảng và Chương trình hành động số 30-CTr/TU của Tỉnh ủy cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, Trưởng ban Tuyên giáo, Thường trực UBND, các sở, ban, ngành tỉnh. Sau hội nghị cấp tỉnh, 100% huyện, thành phố đã tổ chức hội nghị triển khai, quán triệt cho cán bộ chủ chốt cấp huyện và xã. Các đoàn thể tiếp tục phổ biến, quán triệt trong đoàn viên, hội viên cơ sở. Kết quả có 48.316/49.494 đảng viên dự học (đạt 97,61%). Trong đó, có 1.512 cán bộ chủ chốt các cấp; 458.889/529.648 đoàn viên, hội viên dự học (đạt 86,64%) và 224.189/313.521 đại diện hộ dân dự học (đạt 71,50%).

Công tác truyền thông được các cấp tập trung đổi mới về nội dung lẫn hình thức cho phù hợp với yêu cầu công tác DS trong tình hình mới. Qua đó đã huy động sự tham gia và cam kết ủng hộ đối với công tác DS thông qua việc chỉ đạo, đầu tư nguồn lực, lồng ghép các vấn đề DS trong chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đặc biệt, tập trung truyền thông nâng cao nhận thức chuyển đổi hành vi của các tầng lớp nhân dân hưởng ứng cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con; không lựa chọn giới tính thai nhi; thực hiện tầm soát, chẩn đoán, điều trị sớm tật, bệnh trước sinh và sơ sinh; tham gia khám sức khỏe trước hôn nhân; chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, công nhân lao động trong các khu công nghiệp... Đồng thời, tuyên truyền nêu gương người tốt việc tốt, các mô hình điển hình tiên tiến của tỉnh.

Phương thức truyền thông DS cũng được khuyến khích triển khai bằng nhiều hình thức phong phú, phù hợp với đặc thù của từng nhóm đối tượng trong cộng đồng, nhất là tại tuyến cơ sở. Bên cạnh việc tiếp tục phát huy hiệu quả các phương thức truyền thông trên báo, đài, pa-nô, băng-rôn, áp-phích, tờ rơi thì việc triển khai các hoạt động truyền thông trên các nền tảng mạng xã hội như Internet, Zalo, Facebook, Tiktok, Youtube được ngành DS chú trọng triển khai đẩy mạnh trong thời gian gần đây.

Ngoài ra, ngành DS còn phối hợp truyền thông lồng ghép với các tổ chức chính quyền, ban, ngành, đoàn thể tiếp tục được duy trì, đồng thời với việc xây dựng thí điểm, nhân rộng các mô hình truyền thông mới như Câu lạc bộ (CLB) Gia đình 2 con một bề là gái, CLB Liên thế hệ tự giúp nhau, CLB Bạn gái ở Trường Cao đẳng, CLB Giáo dục tình dục toàn diện ở trường THCS, Góc Truyền thông ở trường THPT. Từ năm 2018 - 2022, Chi cục DS - Kế hoạch hóa gia đình phối hợp chặt chẽ với các ngành, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh và các đoàn thể tổ chức 3 hội thảo, 2 cuộc hội thi, 3 cuộc văn nghệ quần chúng, 8 cuộc liên hoan tuyên truyền lưu động; 41 cuộc nói chuyện chuyên đề, 65 cuộc tập huấn chuyên đề về công tác DS trong tình hình mới thu hút 11.572 lượt người tham dự.

Kết quả và hạn chế

Qua 5 năm triển khai thực hiện, công tác DS tỉnh đã thực hiện các chỉ tiêu như: Với chỉ tiêu duy trì ổn định mức sinh thay thế: TFR - số con bình quân ở mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ vào năm 2022 chỉ đạt 1,64 con/phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tiếp cận với các biện pháp tránh thai hiện đại 100%. Tỷ số giới tính khi sinh dao động từ 107 - 110,8 bé trai/100 bé gái và năm 2022 là 109 bé trai/100 bé gái. Tỷ lệ trẻ dưới 15 tuổi đạt 14,52%. Tỷ lệ người từ đủ 65 tuổi trở lên chiếm 11,85%. Tỷ lệ nam, nữ  thanh niên được tư vấn và khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 26%. Tỷ lệ phụ nữ mang thai được sàng lọc trước sinh đạt 67,04%. Tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc sơ sinh đạt 90,64%.

Hội nghị biểu dương cộng tác viên dân số nhân Ngày Dân số Việt Nam tại huyện Thạnh Phú. Ảnh: CTV

Hội nghị biểu dương cộng tác viên dân số nhân Ngày Dân số Việt Nam tại huyện Thạnh Phú. Ảnh: CTV

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chương trình DS và phát triển trên địa bàn tỉnh còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức: nhận thức chưa đồng bộ và chưa đầy đủ về tầm quan trọng, tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài của công tác DS trong tình hình mới nên chưa thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc trong quá trình triển khai thực hiện công tác DS tại địa phương. Nhất là việc bố trí nguồn kinh phí từ ngân sách địa phương cho công tác DS cấp huyện, xã còn rất hạn chế. Công tác phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể thực hiện công tác DS chưa thường xuyên. Việc phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng sinh đủ 2 con, thực hiện khám sức khỏe trước hôn nhân chưa cao. Mức sinh của tỉnh hiện tại xuống thấp dưới mức sinh thay thế (1,64 con/phụ nữ). Tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh đang có sự mất cân bằng (109 bé trai/100 bé gái). Mô hình Tư vấn và khám sức khỏe trước hôn nhân ở cấp cơ sở còn hạn chế...

Ngoài ra, số lượng bác sĩ được đào tạo về lão khoa còn thiếu nên chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Phần lớn trạm y tế xã thiếu nguồn lực để thực hiện Thông tư số 35/2011/TT-BYT ngày 15-10-2011 của Bộ Y tế, trong đó có việc quản lý và tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi.

Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Thời gian tới, để thực hiện tốt các mục tiêu NQ số 21-NQ/TW đòi hỏi phải có sự tập trung quyết liệt của cả hệ thống chính trị với những giải pháp đồng bộ, trọng tâm sau:

 

Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể; lồng ghép các mục tiêu DS và phát triển vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; ban hành các văn bản chỉ đạo, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện công tác DS bám sát tình hình thực tế tại địa phương. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thu thập thông tin, sơ kết đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu DS tại địa phương.

Các cấp quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác DS và Ban Chỉ đạo công tác DS và phát triển; nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy làm công tác DS, duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của viên chức DS xã, cộng tác viên DS. Đặc biệt quan tâm thực hiện đầy đủ các chế độ bồi dưỡng cho cộng tác viên DS. Tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực, tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả.

Tiếp tục đổi mới công tác truyền thông theo hướng chuyển trọng tâm từ DS - kế hoạch hóa gia đình sang DS và phát triển. Tập trung tuyên truyền, vận động mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con. Đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức và thực hành của các nhóm đối tượng về tầm soát trước sinh và sơ sinh; tư vấn và khám sức khỏe trước hôn nhân; chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nhằm góp phần nâng cao chất lượng DS.

Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, dụng cụ y tế; bổ sung nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng thực hành cho nhân viên cung cấp dịch vụ DS và sức khỏe sinh sản theo phân cấp và phân tuyến kỹ thuật. Củng cố, hoàn thiện mạng lưới cung cấp dịch vụ DS và sức khỏe sinh sản dựa vào cộng đồng thông qua đội ngũ cộng tác viên DS, y tế ấp. Mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ cho các khu vực thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mở rộng mạng lưới sàng lọc trước sinh và sơ sinh trên cơ sở đào tạo kỹ thuật, bổ sung trang thiết bị và thực hiện đúng quy trình kỹ thuật đã ban hành.

Duy trì mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ về DS và phát triển; dự báo, cung cấp số liệu DS nhanh chóng, kịp thời, chính xác cho việc lồng ghép các yếu tố DS trong xây dựng và thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Để tiếp tục thực hiện tốt các mục tiêu của NQ số 21-NQ/TW, ngành DS cần đề xuất lãnh đạo địa phương xem xét các chính sách về DS và phát triển, nhất là chính sách hỗ trợ cho đối tượng thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, đối tượng sống tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đồng thời, đẩy mạnh việc đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ cộng đồng, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, phân phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực DS và phát triển.

 Trang Thanh

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN