Các nhiệm vụ trọng tâm của ngành nông nghiệp 6 tháng cuối năm 2024

01/07/2024 - 05:30

BDK - 6 tháng đầu năm 2024, tình hình kinh tế - xã hội trong tỉnh phát triển ổn định. Trong đó, ngành nông nghiệp (NN) đã có nhiều nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức thực hiện đạt nhiều chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Phóng viên Báo Đồng Khởi có cuộc phỏng vấn Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Đoàn Văn Đảnh về nội dung trên.

Thi công bờ kè ở xã Bảo Thuận, huyện Ba Tri. Ảnh: Hữu Hiệp

* Phóng viên: Xin ông cho biết một số kết quả nổi bật của ngành NN trong 6 tháng đầu năm 2024?

- Giám đốc Sở NN&PTNT Đoàn Văn Đảnh: Trong những tháng đầu năm 2024, mặc dù sản xuất NN trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn do ảnh hưởng của nắng nóng và xâm nhập mặn, nhưng các cấp, các ngành, địa phương và người dân đã tích cực, chủ động thực hiện các giải pháp phòng chống, ứng phó. Cùng với sự quyết tâm, nỗ lực của toàn thể cán bộ, đảng viên, người lao động, ngành NN của tỉnh đã đạt được một số kết quả khả quan.

Tình hình sản xuất NN cơ bản được duy trì với tốc độ tăng trưởng đạt 2,68%. Diện tích dừa trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng, đạt 79.085ha, sản lượng thu hoạch 6 tháng ước đạt 353,4 triệu trái, tăng 0,26% so với cùng kỳ. Sản lượng cây ăn trái đạt 160.450 tấn, đạt 50,94% so với kế hoạch.

 Lĩnh vực chăn nuôi, từ đầu năm đến nay chưa ghi nhận ca bệnh mới đối với các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, chăn nuôi còn gặp khó khăn do chi phí đầu vào tăng cao, tổng đàn bò đạt 225.960 con, giảm 5,95% so với cùng kỳ; tổng đàn heo 400.960 con, giảm 4,12% so với cùng kỳ và đàn gia cầm 6,25 triệu con, giảm 3,5% so với cùng kỳ. Diện tích nuôi thủy sản 6 tháng đầu năm ước đạt 39.377ha, tăng 2,7% so với cùng kỳ, sản lượng thu hoạch đạt 148.160 tấn, tăng 6,4% so với cùng kỳ.

Thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành NN, phát triển NN theo hướng hàng hóa, năng suất, chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo số liệu thống kê đến cuối tháng 5-2024, toàn tỉnh có 25.500ha sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, GAP và tương đương. Trong đó, dừa hữu cơ là 19.241ha; cây ăn trái (VietGAP) 730ha; thủy sản 5.529ha. Thực hiện xây dựng vùng sản xuất tập trung gắn với chuỗi giá trị sản phẩm NN chủ lực của tỉnh theo tinh thần Nghị quyết số 07-NQ/TU của Tỉnh ủy đáp ứng ngày càng tốt hơn nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Xây dựng vùng sản xuất dừa với diện tích hơn 24.000ha, chiếm hơn 30% diện tích dừa toàn tỉnh, trong đó có hơn 19.200ha dừa sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ.

Vùng cây ăn trái đặc sản được tập trung thực hiện trên các đối tượng có giá trị kinh tế cao như bưởi da xanh, chôm chôm, sầu riêng, xoài... Hình thành nên vùng sản xuất cây ăn trái gần 1.000ha, trong đó gần 730ha sản xuất theo tiêu chuẩn GAP và tương đương. Với diện tích nuôi thủy sản tiềm năng hơn 50.000ha, đã khai thác đưa vào sử dụng trên 47.800ha tập trung vào 5 đối tượng nuôi chủ yếu: tôm chân trắng, tôm sú, cá tra, nghêu và tôm càng xanh. Hiện nay, ngành đang phát triển hình thức nuôi tôm công nghệ cao, với diện tích ban đầu từ 550ha năm 2018, đến nay toàn tỉnh ước đạt 3.430ha. Năng suất bình quân từ 60 - 70 tấn/ha mặt nước, lợi nhuận trung bình từ 700 - 800 triệu đồng/vụ nuôi. Mô hình này được đánh giá mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.

Bên cạnh đó, các đối tượng như: cây giống - hoa kiểng, con heo, con bò tuy chưa đạt được những kết quả rõ nét, nhưng cũng được ngành quan tâm tập trung thực hiện. Việc xây dựng mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói cung ứng cho các thị trường ngoài nước được người dân và doanh nghiệp chú trọng thực hiện. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thị trường nông sản của Việt Nam nói chung và của tỉnh nói riêng. Có hơn 1.000ha được cấp mã số vùng trồng nội địa gồm lúa, bưởi da xanh, rau, dừa, xoài và nhãn; hơn 960ha cây ăn trái được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu gồm bưởi da xanh, chôm chôm, xoài, sầu riêng, nhãn và có 6 doanh nghiệp được cấp mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu sang các thị trường như: Hoa Kỳ, New Zealand, châu Âu, Trung Quốc, Thái Lan...

Riêng đối với cây dừa, sau khi nhận được tín hiệu từ thị trường Trung Quốc, ngành NN tỉnh đã đồng hành cùng doanh nghiệp, các tổ hợp tác và hợp tác xã chuẩn bị các điều kiện để sẵn sàng xuất khẩu dừa chính ngạch sang thị trường này. Hiện nay, ngành đã tiếp nhận 109 hồ sơ đăng ký xây dựng vùng trồng dừa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc với diện tích 7.066ha với gần 11 ngàn hộ tham gia trong vùng sản xuất.

Đối với Chương trình OCOP, đến nay, toàn tỉnh có 256 sản phẩm còn thời hạn theo quyết định công nhận; trong đó, có 198 sản phẩm 3 sao, 54 sản phẩm 4 sao, 4 sản phẩm 5 sao.

* Trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch năm 2024, ngành còn những khó khăn gì, thưa ông?

- Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành NN tỉnh còn gặp không ít khó khăn, hạn chế như: Ảnh hưởng kinh tế thế giới và cơ chế thị trường, giá thành sản phẩm thấp trong khi đó giá nguyên liệu đầu vào (thức ăn, thuốc hóa chất, nhiên liệu...) tăng hàng năm nên lợi nhuận không cao, ảnh hưởng đến việc tái sản xuất của người dân. Công tác đăng ký đối tượng nuôi chủ lực còn gặp nhiều khó khăn do không đúng mục đích sử dụng đất; công tác cấp giấy phép đăng ký lồng bè còn vướng về thủ tục thuê mặt nước; chính sách cho vay vốn để nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao chưa được mở rộng.

Thiếu sự hợp tác của người dân trong công tác thanh tra, kiểm tra tàu khai thác thủy sản mất tín hiệu giám sát trên 10 ngày, đặc biệt là các tàu hiện nay đang hoạt động ở vùng biển tỉnh Cà Mau. Một số chủ tàu cá cố tình né tránh, mời không đến làm việc, không có mặt ở địa phương gây nhiều khó khăn cho đoàn làm việc; một số công ty bán thiết bị chậm trễ trong công tác xử lý sự cố mất tín hiệu thiết bị giám sát tàu cá do đơn vị mình cung cấp gây nhiều khó khăn.

Nguồn nước cung cấp cho các nhà máy nước nông thôn chủ yếu từ các sông, rạch; hàng năm bị nhiễm mặn vào các tháng mùa khô, làm ảnh hưởng đến chất lượng nước cấp cho người dân vùng nông thôn; nguồn vốn đầu tư cho nước sạch còn rất thấp so với nhu cầu và mục tiêu đề ra.

* Ngành có những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nào trong 6 tháng cuối năm 2024?

- Để hoàn thành các chỉ tiêu theo kế hoạch đã đề ra, 6 tháng cuối năm, ngành NN tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chương trình, nghị quyết của Tỉnh ủy, UBND tỉnh nhằm tạo sự chuyển biến rõ nét trên lĩnh vực NN, nông dân, nông thôn. Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao giá trị gia tăng, thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành NN theo hướng phát triển NN bền vững, đẩy mạnh phát triển nền NN hiện đại, NN sạch, NN hữu cơ thích ứng với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh các ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, các giải pháp về liên kết, thị trường, du lịch... để tạo giá trị gia tăng; phát triển sản xuất gắn chặt với xây dựng nông thôn mới.

Tập trung chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như: Tập trung hướng dẫn người dân thực hiện các giải pháp kỹ thuật phục hồi sản xuất sau ảnh hưởng của hạn mặn. Tiếp tục hỗ trợ xây dựng vùng sản xuất theo tinh thần Nghị quyết số 07-NQ/TU của Tỉnh ủy. Thực hiện tốt các giải pháp phòng trừ sâu, bệnh trên cây trồng, vật nuôi: đẩy mạnh nuôi và phóng thích ong ký sinh trên các vườn dừa, tiếp tục nghiên cứu biện pháp phòng trị sâu đầu đen; theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình bệnh gia súc, gia cầm.

Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, phối hợp kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc các lĩnh vực phụ trách của ngành như: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; điều kiện an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản; công tác quản lý rừng; công tác chống đánh bắt IUU. Tiếp tục các giải pháp trong công tác phòng chống thiên tai 6 tháng cuối năm. Đẩy nhanh tiến độ triển khai thi công các công trình, dự án NN đảm bảo tiến độ, chất lượng. Tiếp tục công tác xây dựng nông thôn mới và tập trung thực hiện các nội dung liên quan đến chuyển đổi số trong ngành NN năm 2024.

* Xin cảm ơn Giám đốc Sở NN&PTNT!

Công tác ứng phó với xâm nhập mặn được ngành nông nghiệp tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ, cùng với sự vận hành hiệu quả của hệ thống ngăn mặn trữ ngọt đã góp phần hạn chế sự ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến sinh hoạt và sản xuất.

Đài Khí tượng thủy văn, Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi, các đơn vị cấp nước đã tổ chức đo mặn thường xuyên ở 114 điểm, cung cấp thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các tổ chức, cá nhân theo dõi, lấy nước phù hợp với nhu cầu. Người dân chủ động trữ nước trong các dụng cụ trữ nước, trong ao, mương vườn, hồ trải bạt, liên kết đắp đập tạm, trên 95% hộ gia đình có dụng cụ trữ nước phục vụ ăn uống, sinh hoạt.

Các công trình thủy lợi Bắc Bến Tre giai đoạn 1 kết hợp với cống Tân Phú, Bến Rớ vừa đưa vào sử dụng cơ bản kiểm soát được nguồn nước từ sông Tiền và sông Hàm Luông vào sông Ba Lai, tạo thành khu vực trữ nước với dung tích khoảng 2 triệu mét khối cung cấp phục vụ cho khoảng 150 ngàn hộ dân, 17.000ha đất sản xuất NN, cấp nước cho đô thị và khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Cống Sa Kê, cống Giồng Keo kết hợp với trục dẫn ngọt Cả Hàng đã tạo thành khu vực trữ nước với dung tích khoảng 1,2 triệu mét khối cung cấp nước phục vụ cho khoảng 16 ngàn hộ dân, khoảng 3.700ha đất sản xuất NN trên địa bàn huyện Mỏ Cày Bắc và huyện Mỏ Cày Nam. Có khoảng 41% người dân sử dụng nước máy đạt tiêu chuẩn địa phương (độ mặn dưới 0,5%o) trên tổng số dân sử dụng nước máy (83%).

Hữu Hiệp (thực hiện)

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN