Quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ

21/07/2024 - 19:41

Ông T.V.M có nhu cầu tư vấn: Tôi là nguyên đơn trong một vụ tranh chấp đất đai với ông N. Vụ việc xảy ra đã nhiều năm, có ông A và ông B biết rõ và có thể đứng ra làm chứng cho tôi nhưng 2 người này sợ mếch lòng nên không đồng ý. Xin hỏi: Tôi có thể yêu cầu tòa án buộc ông A, ông B làm chứng và cung cấp chứng cứ để làm rõ tranh chấp hay không? Tôi phải làm sao?

Thắc mắc của ông được luật sư Phạm Thị Kim Tuyến (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:

- Theo pháp luật tố tụng dân sự, thì người tham gia tố tụng gồm: đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trong vụ việc dân sự và những người tham gia tố tụng khác. Trong đó, người làm chứng (NLC) được tham gia với tư cách là người tham gia tố tụng khác.

Điều 77 Bộ luật Tố tụng dân (BLTTDS) năm 2015 quy định: NLC là người biết các tình tiết liên quan đến nội dung vụ việc được đương sự đề nghị. Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là NLC. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể là NLC.

Theo quy định tại Điều 78 BLTTDS thì NLC có quyền như sau: Cung cấp toàn bộ thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên quan đến việc giải quyết vụ việc; khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc giải quyết vụ việc; được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình; được thanh toán các khoản chi phí có liên quan theo quy định của pháp luật…

Theo Điều luật quy định thì NLC có các nghĩa vụ như: Phải bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác; phải có mặt tại tòa án, phiên tòa, phiên họp theo giấy triệu tập của tòa án nếu việc lấy lời khai của NLC phải thực hiện công khai tại tòa án, phiên tòa, phiên họp.

Trong trường hợp NLC không đến phiên tòa, phiên họp mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ cản trở việc xét xử, giải quyết thì thẩm phán, hội đồng xét xử, hội đồng giải quyết việc dân sự có thể ra quyết định dẫn giải NLC đến phiên tòa, phiên họp, trừ trường hợp NLC là người chưa thành niên.

Tại khoản 7, Điều 70 BLTTDS quy định quyền và nghĩa vụ của đương sự, thì đương sự có quyền đề nghị tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị tòa án triệu tập NLC, trưng cầu gián định, quyết định việc định giá tài sản.

Như vậy, căn cứ quy định của pháp luật và theo thông tin ông cung cấp, thì với tư cách là nguyên đơn khởi kiện, ông có quyền làm đơn yêu cầu tòa thu thập chứng cứ bằng cách lấy lời khai của NLC đối với ông A và ông B. Trong trường hợp cần thiết, ông cũng có thể làm đơn yêu cầu tòa án triệu tập ông A, ông B với tư cách là NLC.

H. Trâm (thực hiện)

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN